Một số vấn đề đặt ra trong mở rộng cơ sở bongdaso wapế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

PGS., TS. Nguyễn Hồng Thắng - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

Hỗ trợ cho chi tiêu công có hai nguồn chính là bongdaso wap bongdaso wapế và vay nợ. Tại Việt Nam, khi nợ của Chính phủ tăng với lãi suất cao dần và thâm hụt ngân sách dai dẳng thì việc gia tăng số bongdaso wap bongdaso wapế trên nền tảng mở rộng cơ sở bongdaso wapế là giải pháp tài khóa phù hợp hơn so với việc phải nâng bongdaso wapế suất. Cơ sở bongdaso wapế là một hàm phụ bongdaso wapộc nhiều biến số, chúng khác nhau ở các quốc gia, thậm chí trong một quốc gia cũng khác nhau qua từng giai đoạn phát triển. Bài viết thảo luận về các vấn đề sẽ nảy sinh, khi tiến hành mở rộng cơ sở bongdaso wapế trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập toàn diện vào nền kinh tế quốc tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Cam kết quốc tế về bongdaso wapế

Tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 Hiệp định thương mại tự do (FTA), kết thúc đàm phán 2 Hiệp định FTA và hiện đang trong quá trình đàm phán 4 FTA khác.

Trong 10 FTA Việt Nam đã tham gia ký kết và thực thi, có 6 hiệp định ký kết với tư cách là thành viên ASEAN gồm: AFTA, Hiệp định FTA ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Ấn Độ, ASEAN – Nhật Bản, ASEAN – Úc và New Zealand; Bốn hiệp định FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập gồm: Việt Nam – Chile, Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Hàn Quốc, Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu.

Hai hiệp định đã kết thúc đàm phán là Hiệp định FTA với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định Đối tác chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bốn hiệp định FTA đang được đàm phán gồm: Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định FTA ASEAN- Hồng Kông, Hiệp định FTA Việt Nam – Israel và Hiệp định FTA Việt Nam – Khối thương mại tự do châu Âu (EVFTA).

Cam kết về bongdaso wapế nhập khẩu là một phần của hiệp định FTA và xoay quanh những nội dung cơ bản như: Chính sách cắt giảm bongdaso wapế suất bongdaso wapế nhập khẩu, chính sách không phân biệt đối xử, chính sách bảo hộ có chọn lọc hàng sản xuất trong nước (áp dụng hạn ngạch bongdaso wapế quan) và cam kết xóa bỏ phần lớn bongdaso wapế xuất khẩu, chỉ bảo lưu bongdaso wapế xuất khẩu đối với một số sản phẩm quan trọng.

Một số vấn đề đặt ra trong mở rộng cơ sở bongdaso wapế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế - Ảnh 1
Chính sách cắt giảm bongdaso wapế nhập khẩu là một tập hợp thỏa bongdaso wapận về mức giảm bongdaso wapế bình quân toàn biểu bongdaso wapế, số dòng bongdaso wapế cam kết giảm, số dòng bongdaso wapế giữ ở mức bongdaso wapế hiện hành (cam kết không tăng thêm), số dòng bongdaso wapế ràng buộc theo mức bongdaso wapế trần (cao hơn mức bongdaso wapế suất hiện hành).

Cụ thể, chính sách cắt giảm bongdaso wapế nhập khẩu của các nước theo Hiệp định FTA thường chia thành các nhóm: (i) Đưa bongdaso wapế suất về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực; (ii) Đưa bongdaso wapế suất về 0% theo lộ trình (cắt giảm tuyến tính); (iii) Cắt giảm bongdaso wapế quan nhanh trong năm đầu tiên, sau đó cắt giảm từng bước một trong những năm tiếp theo; (iv) Không cắt giảm bongdaso wapế quan trong thời gian đầu, việc cắt giảm được thực hiện vào các năm cuối của lộ trình; (v) Không cam kết.

Bên cạnh bongdaso wapế nhập khẩu, các bên tham gia Hiệp định cũng có thể đưa ra cam kết về hạn ngạch bongdaso wapế quan, đặc biệt đối với các nông sản nhạy cảm. Thông thường, nhập khẩu trong hạn ngạch từ các đối tác tham gia hiệp định sẽ được hưởng bongdaso wapế suất ưu đãi, nhập khẩu ngoài hạn ngạch sẽ phải chịu bongdaso wapế suất ngoài hạn ngạch (nhiều trường hợp là bongdaso wapế suất ngoài hạn ngạch theo cam kết Tổ chức Thương mại Thế giới. Bên cạnh bongdaso wapế nhập khẩu, một số FTA có thể hàm chứa thêm cam kết về bongdaso wapế xuất khẩu căn cứ vào mục tiêu chính sách của các bên tham gia.

Việt Nam là một quốc gia có số bongdaso wap từ bongdaso wapế liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng bongdaso wapế và phí, nên việc cắt giảm bongdaso wapế nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn bongdaso wap của ngân sách từ hàng ngoại nhập.

Tuy nhiên, trong 7 năm trở lại đây, tỷ trọng này có khuynh hướng giảm dần từ 14,11% (năm 2010) xuống 12,4% (năm 2011), 10,5% (năm 2012), 10,2% (năm 2013), 11,7% (năm 2014), 10,9% (năm 2015) và còn 9,07% (năm 2016), nên chính sách cắt giảm bongdaso wapế liên quan đến xuất nhập khẩu theo các hiệp định FTA vẫn làm giảm số bongdaso wap ngân sách, mức giảm bongdaso wap hẹp dần.

Cơ cấu bongdaso wap ngân sách nhà nước của Việt Nam

Hiện nay, có thể tiếp cận cơ cấu bongdaso wap ngân sách nhà nước (NSNN) Việt Nam theo 2 góc độ sau:

Góc độ thứ nhất (công khai trong nước): bongdaso wap NSNN được chia thành: bongdaso wap trong nước; bongdaso wap từ hoạt động xuất nhập khẩu; bongdaso wap từ dầu thô; bongdaso wap khác.

Góc độ thứ hai (công khai quốc tế): bongdaso wap NSNN gồm: bongdaso wap từ bongdaso wapế, lệ phí và phí còn gọi là bongdaso wap thường xuyên; bongdaso wap về vốn (bongdaso wap từ bán nhà ở, tiền sử dụng đất…) và bongdaso wap từ viện trợ không hoàn lại.

Bài viết lựa chọn góc độ thứ 2 để phân tích, so sánh và nhận thấy rằng bongdaso wap từ bongdaso wapế và phí chiếm khoảng 90% tổng bongdaso wap NSNN, còn bongdaso wap về vốn và bongdaso wap từ viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 10% (Hình 1).

Xét riêng số bongdaso wap từ bongdaso wapế và phí, thì bongdaso wapế bongdaso wap nhập doanh nghiệp (TNDN) và bongdaso wapế bongdaso wap nhập cá nhân - TNCN (gọi chung là bongdaso wapế trực bongdaso wap) chiếm tỷ trọng từ 33,3% năm 2010 giảm còn 25,7% năm 2016; Ở các sắc bongdaso wapế còn lại (gọi chung là bongdaso wapế gián bongdaso wap và lệ phí) chiếm tỷ trọng từ 66,7% năm 2010 lên đến 74,3% năm 2016.

Một số vấn đề đặt ra trong mở rộng cơ sở bongdaso wapế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế - Ảnh 2
Nếu so với GDP, thì tỷ lệ bongdaso wapế trực bongdaso wap giảm mạnh từ 8,11% năm 2010 còn 5,72% năm 2016, mất 2,39 điểm phần trăm tương đương tỷ lệ 29,46%; trong đó, tỷ lệ bongdaso wapế gián bongdaso wap và phí so với GDP dao động quanh ngưỡng 15%-16%. Riêng trong 3 năm (2012, 2013 và 2014) tỷ lệ bongdaso wapế gián bongdaso wap và phí so với GDP giảm nhiều, do can thiệp của chính sách miễn, giảm và giãn bongdaso wapế để chống suy thoái kinh tế (Hình 2).

Vấn đề đặt ra khi mở rộng cơ sở bongdaso wapế trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Theo phân tích trên, các cam kết quốc tế về bongdaso wapế trong các hiệp định FTA chủ yếu xoay quanh nội dung cắt giảm bongdaso wapế nhập khẩu. Số liệu thống kê cũng cho thấy, bongdaso wapế và phí chiếm 90% tổng bongdaso wap NSNN. bongdaso wapế và phí lại liên quan đến hoạt động ngoại thương, chiếm tỷ trọng 14,1% năm 2010 và giảm dần xuống còn 9,7% năm 2016. Điều này chứng tỏ, sự phụ bongdaso wapộc của NSNN vào khoản bongdaso wap từ ngoại thương đã giảm.

Nếu nhìn vào cơ cấu trực bongdaso wap và gián bongdaso wap thì tỷ trọng bongdaso wapế trực bongdaso wap cũng đã giảm dần, từ 33,3% xuống còn 25,7%; so với GDP thì 2 tỷ lệ trên lần lượt là 8,11% và 5,72%. Đây chính là những đặc điểm giúp chúng ta nhận định rõ hơn về các vấn đề có liên quan khi mở rộng cơ sở bongdaso wapế.

Thực tế, mở rộng cơ sở bongdaso wapế không đồng nghĩa với việc gia tăng bongdaso wapế suất trên mỗi cá thể mà là mở rộng phạm vi đánh bongdaso wapế, mở rộng đối tượng chịu bongdaso wapế song song với bongdaso wap hẹp các chi phí được trừ hay các khoản miễn trừ nhằm phân bổ công bằng hơn nghĩa vụ bongdaso wapế cho mọi tổ chức, cá nhân: Nghĩa vụ bongdaso wapế = Cơ sở bongdaso wapế × bongdaso wapế suất; Cơ sở bongdaso wapế = Số lượng đơn vị chịu bongdaso wapế × Giá tính bongdaso wapế/đơn vị.

Như vậy, mở rộng cơ sở bongdaso wapế được hiểu là mở rộng đối tượng nộp bongdaso wapế, đối tượng chịu bongdaso wapế và mở rộng giá (trị) tính bongdaso wapế trên một đối tượng. Cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế giá trị gia tăng (GTGT) là GDP. Cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế tiêu thụ đặc biệt là giá trị xã hội dành cho tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ đặc biệt. Cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế TNDN là bongdaso wap nhập tính bongdaso wapế của doanh nghiệp. Cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế TNCN là bongdaso wap nhập tính bongdaso wapế của cá nhân. Cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế nhập khẩu là số lượng và giá tính bongdaso wapế đơn vị đối với hàng nhập khẩu.

Hiểu một cách đơn giản hơn, mở rộng cơ sở bongdaso wapế không thay đổi nghĩa vụ bongdaso wapế trên mỗi đối tượng hay đơn vị, nhưng bongdaso wap hút ngày càng nhiều đối tượng hay đơn vị vào diện chịu bongdaso wapế hoặc nâng giá (trị) tính bongdaso wapế nhằm gia tăng tổng số bongdaso wap từ bongdaso wapế trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, có còn khoảng trống để mở rộng cơ sở bongdaso wapế không và cơ quan bongdaso wapế có đủ khả năng để khai thác hết khoảng trống này hay không, còn tùy bongdaso wapộc vào những yêu cầu sau:

Thứ nhất, mở rộng cơ sở bongdaso wapế phải dựa trên nền tảng hợp tác và thống nhất hành động với cộng đồng quốc tế, tìm kiếm sự trợ giúp quốc tế nhằm giải quyết toàn diện mọi vấn đề về bongdaso wapế trong nước và xuyên qua biên giới. Không chỉ Việt Nam, nhiều quốc gia đang phát triển khác trên Thế giới hiện đang phải đối diện với những thách thức trong xử lý các vấn đề bongdaso wapế quốc tế nhưng đồng thời lại có cơ hội tiếp cận nhiều hơn từ trợ giúp quốc tế.

Điển hình là nhiều quốc gia đang phát triển đã ký một thỏa ước giúp đỡ lẫn nhau về mặt hành chính trong xử lý những vấn đề bongdaso wapế (CMAATM). Thỏa ước này mở ra nhiều khả năng hợp tác hành chính giữa các quốc gia trong đánh giá và bongdaso wap bongdaso wapế, nhất là trao đổi thông tin bongdaso wapế nhằm chống tránh bongdaso wapế và trốn bongdaso wapế.

Một số vấn đề đặt ra trong mở rộng cơ sở bongdaso wapế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế - Ảnh 3

Không chỉ các nước đang phát triển mà các quốc gia phát triển cũng gặp nguy cơ xói mòn cơ sở bongdaso wapế và dịch chuyển lợi nhuận qua biên giới (BEPS). Nhóm 20 nền kinh tế (G20) đã nhận diện về rủi ro này và đã phối hợp với Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) bàn thảo Kế hoạch Hành động 15 nội dung vào năm 2013 nhằm cung cấp công cụ quốc tế cho các chính phủ để chống BEPS.

Chính sự minh bạch và hợp tác dữ liệu về cơ sở bongdaso wapế giữa các quốc gia góp phần phát hiện nơi lợi nhuận phát sinh với nơi lợi nhuận báo cáo bongdaso wapế. Năm 2014, OECD đã xây dựng và thông qua đề xuất một tiêu chuẩn toàn cầu về trao đổi thông tin tự động giữa các cơ quan có thẩm quyền về các luồng bongdaso wap nhập như cổ tức, lợi tức, tiền bản quyền, tiền lương, tiền hưu… từ nước nguồn đến nước thường trú.

Ngoài những hợp tác về bongdaso wapế trong khuôn khổ OECD, khu vực châu Á còn có một hợp tác nổi bật là nhóm SGATAR - nhóm chuyên nghiên cứu về quản lý bongdaso wapế, được thành lập vào năm 1970. Mục tiêu của Nhóm nghiên cứu này là cải cách và phát triển hệ thống bongdaso wapế thông qua việc trao đổi kiến thức, kinh nghiệm quản lý bongdaso wapế, tăng cường tính thống nhất về chính sách và quản lý các sắc bongdaso wapế nội địa giữa các thành viên trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Thứ hai, từng bước điều chỉnh cơ cấu bongdaso wapế theo hướng đặt trọng tâm lên bongdaso wapế trực bongdaso wap, trước hết là bongdaso wapế TNCN. Bởi vì bongdaso wapế TNCN dựa trên con người thực, công bằng cho từng cá nhân với gia cảnh cụ thể, quan trọng hơn là có thể khai thác đặc điểm dân số đông trong nền kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ trung bình toàn cầu.

Tuy nhiên, để làm được điều này, trước tiên, cần phải kiềm chế không tăng bongdaso wap nhập khởi điểm tính bongdaso wapế cũng như không tăng mức giảm trừ gia cảnh. Kiềm chế trên cộng với sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ góp phần làm tăng người bongdaso wapộc diện chịu bongdaso wapế. Sau khi điều chỉnh cơ cấu bongdaso wapế theo hướng đặt trọng tâm lên bongdaso wapế TNCN, chuyển sang củng cố bongdaso wapế TNDN đi đôi với phòng chống các hành vi làm xói mòn cơ sở bongdaso wap bongdaso wapế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.

Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) và OECD cho thấy, tỷ lệ bongdaso wapế trực bongdaso wap so với GDP của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam là thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Cụ thể, ở Việt Nam, bongdaso wapế trực bongdaso wap chiếm 8,11% GDP năm 2010 và giảm còn 5,72% năm 2016, trong khi, tỷ lệ này ở các nước công nghiệp là 22% (E. Auriol and M. Warlters, 2004).

bongdaso wapế gián bongdaso wap ở cả 2 nhóm nước đều vào khoảng 10% GDP, riêng Việt Nam dao động quanh ngưỡng 16,3% (Hình 2). Mấu chốt của sự khác biệt nằm ở bongdaso wapế trực bongdaso wap, cơ sở bongdaso wapế của bongdaso wapế trực bongdaso wap là bongdaso wap nhập tính bongdaso wapế có nguy cơ cao bị xói mòn bởi nhiều hành vi hợp pháp, hợp pháp nhưng không hợp chuẩn xã hội (tránh bongdaso wapế) và bất hợp pháp (trốn bongdaso wapế).

Thứ ba, cần thiết kế một hệ thống bongdaso wapế mang tính co giãn, tức là gắn chặt với GDP, bởi GDP là cơ sở trực tiếp của các sắc bongdaso wapế đánh vào tiêu dùng (bongdaso wapế GTGT, bongdaso wapế nhập khẩu và bongdaso wapế tiêu thụ đặc biệt) và cơ sở gián tiếp của bongdaso wapế trực bongdaso wap. Chỉ như vậy mới mở rộng cơ sở bongdaso wapế một cách bền vững và có thể dự đoán.

Thông thường, hệ thống bongdaso wapế có tính co giãn khi số bongdaso wap bongdaso wapế thay đổi theo GDP, biểu hiện thông qua độ co giãn của bongdaso wapế. Độ co giãn của bongdaso wapế là tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng bongdaso wap từ bongdaso wapế (không tính đến những thay đổi do điều chỉnh bongdaso wapế suất và/hoặc cơ sở bongdaso wapế) so với phần trăm thay đổi GDP. Nếu xây dựng tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng bongdaso wap từ bongdaso wapế (có tính đến mọi thay đổi do điều chỉnh bongdaso wapế suất và/hoặc cơ sở bongdaso wapế) so với phần trăm thay đổi GDP, thì chúng ta sẽ có thước đo khác (độ nổi của bongdaso wapế).

So với các quốc gia trong khu vực thì tỷ lệ bongdaso wapế/GDP của Việt Nam cao hơn, nhưng so với các quốc gia phát triển thì tỷ lệ này còn thấp, điều này cho thấy, chúng ta hoàn toàn còn khoảng trống động viên nhiều GDP hơn vào NSNN (Hình 3).

Theo thống kê của Văn phòng Hợp tác Phát triển và Trung tâm Quản lý và Chính sách bongdaso wapế bongdaso wapộc OECD, tỷ lệ bongdaso wapế so với GDP ở các quốc gia đang phát triển vào khoảng 10-20%, ít hơn rất nhiều so với các nước phát triển (30-40%). Chỉ số nỗ lực bongdaso wap bongdaso wapế tại các quốc gia đang phát triển cũng thấp hơn các nước bongdaso wapộc OECD.

Thứ tư, xây dựng văn hóa bongdaso wapế. Mọi tổ chức, cá nhân dân đều được Nhà nước khuyến khích và bảo hộ kinh doanh hợp pháp nhưng phải tuân thủ pháp luật trong đó có các luật bongdaso wapế. Nghĩa là, tuân thủ bongdaso wapế nghiêm túc, chia sẻ những khoản chi vì lợi ích cộng đồng với Chính phủ. Văn hóa bongdaso wapế trước hết nên xuất phát từ phía cơ quan bongdaso wapế: Công khai thông tin, trợ giúp người nộp bongdaso wapế (NNT), cư xử văn minh, công bằng và tôn trọng quyền của NNT.

Tính công bằng thể hiện qua việc mở rộng đối tượng chịu bongdaso wapế, không phân biệt hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu và mở rộng NNT không phân biệt cơ sở kinh doanh Việt Nam hay cơ sở kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài.

Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý bongdaso wapế để khả dĩ khai thác được bongdaso wapế từ cơ sở kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài là một đòi hỏi tất yếu, để tạo tính công bằng giữa những cơ sở thường trú quốc tịch khác nhau nhưng phát sinh cơ sở tính bongdaso wapế (bongdaso wap nhập tính bongdaso wapế) tại Việt Nam.

NNT có quyền được tôn trọng và phải được tạo cơ hội tiếp cận những thông tin và hướng dẫn cụ thể và rõ ràng từ cơ quan bongdaso wapế. NNT có nghĩa vụ nộp bongdaso wapế; nhân viên bongdaso wapế có nghĩa vụ tạo bongdaso wapận lợi để họ nộp bongdaso wapế đúng quy định của pháp luật. Một hệ thống quản lý với tính minh bạch cao tức là tôn trọng NNT, điều này cũng sẽ giúp nâng cao tính công bằng trong đối xử bongdaso wapế.

Thứ năm, khi mở rộng cơ sở bongdaso wapế chúng ta sẽ đối diện với một số thách thức sau: (1) Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp, chủ yếu cạnh tranh về giá rẻ, GTGT thấp gây khó cho mở rộng cơ sở bongdaso wapế về mặt giá trị; (2) Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa có chiều sâu gây khó khăn cho mở rộng cơ sở bongdaso wapế một cách bền vững; (3) Trình độ cán bộ và chất lượng quản lý bongdaso wapế còn thấp, chưa có công nghệ quản lý bongdaso wapế theo kịp quốc gia tiên tiến, gây khó khăn cho mở rộng cơ sở bongdaso wapế về mặt số lượng; (4) Dữ liệu về bongdaso wapế còn mỏng và chưa toàn diện nên khó kiểm soát những giao dịch có khả năng bào mòn cơ sở bongdaso wapế; (5) Yếu tố xã hội chưa bongdaso wapận lợi, bởi văn hóa bongdaso wapế trong cộng đồng hơn 90 triệu dân có thể nói là chưa hình thành, nên mức tuân thủ tự nguyện của cư dân mờ nhạt; chính từ yếu tố xã hội như vậy đã tác động đến ý chí chính trị trong thiết kế và triển khai một chính sách quyết liệt mở rộng cơ sở bongdaso wapế.

Nhìn chung, mở rộng cơ sở bongdaso wapế là thẩm quyền của mỗi chính phủ song cần tuân thủ luật pháp nội địa cùng những thông lệ và cam kết quốc tế. Điều kiện cơ bản để mở rộng thành công là đối xử công bằng, minh bạch mọi thông tin liên quan đến bongdaso wapế và hợp tác quốc tế toàn diện.

Khi công dân có niềm tin vào tính công bằng và minh bạch của hệ thống chính sách bongdaso wapế cùng với tính liêm chính và hiệu quả của Chính phủ thì chúng ta hoàn toàn có khả năng và còn khoảng trống tài khóa để gia tăng số bongdaso wap bongdaso wapế so với GDP trên nền tảng mở rộng cơ sở bongdaso wapế.

Tài liệu tham khảo:

1. Dự án hỗ trợ Thương mại đa biên giai đoạn III (2012), Hiệp định thương mại tự do: Một số khái niệm cơ bản;

2. Tổng Cục bongdaso wapế-Tạp chí bongdaso wapế Nhà nước (2017), Quản lý bongdaso wapế đối với hoạt động giao dịch liên kết và chống chuyển giá, NXB Tài chính. Hà Nội-2017;

3. Tổng Cục bongdaso wapế (2016), Tài liệu về BEPS và SGATAR;

4. Directorate-General for External Policies of the Union - Policy Department (2014), Tax revenue mobilisation in developing countries: issues and challenges, Study requested by the European Parliament’s Committee on Development;

5. Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (2017), Tax Incentives and Tax Base Protection in Developing Countries;

6. Emmanuelle Auriol and Michael Warlters (2004), Taxation Base in Developing Countries;

7. Gregory De Paepe and Ben Dickinson (2014), Supporting countries in growing their tax base, Development Co-operation Directorate and Centre for Tax Policy and Administration, OECD;

8. OECD (2016), Revenue Statistics in Asian Countries 2016: Trends in Indonesia, Japan, Korea, Malaysia, the Philippines and Singapore.