Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 11 tháng đầu năm 2018

Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa mùa, lúa thu đông trên cả nước và gieo trồng cây màu vụ đông tại các địa phương phía Bắc. Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước đã thu hoạch được 1.469,7 bongdaso nét ha lúa mùa, chiếm 87,3% diện tích gieo cấy và bằng 98,1% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch 1.085,5 bongdaso nét ha, chiếm 98,3% và bằng 96,9%; các địa phương phía Nam thu hoạch 384,2 bongdaso nét ha, chiếm 66,3% và bằng 101,7%.
Tại các tỉnh phía Bắc, do thời tiết thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển nên năng suất đạt khá. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa mùa năm nay tại các địa phương phía Bắc ước tính đạt 49,4 tạ/ha, tăng 3,2 tạ/ha so với vụ mùa năm trước; sản lượng đạt gần 5,5 triệu tấn, tăng 217,1 bongdaso nét, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng tăng 235,9 bongdaso nét, trong đó Thái Bình tăng 91,2 bongdaso nét; Nam Định tăng 51,2 bongdaso nét; Hải Dương tăng 40,1 bongdaso nét; Hà Nam và Ninh Bình đều tăng trên 21 bongdaso nét.
Tại các tỉnh phía Nam, năng suất lúa mùa ước tính đạt 48,5 tạ/ha, tăng 3,1 tạ/ha so với vụmùa năm trước; sản lượng đạt 2,8 triệu tấn, tăng 185,9 bongdaso nét. Tính chung cả nước, năng suất lúa mùa năm 2018 ước tính đạt 49,1 tạ/ha, tăng 3,2 tạ/ha; sản lượng đạt gần 8,3 triệu tấn, tăng 403 bongdaso nét.
Tính đến thời điểm 15/11/2018, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 732,1 bongdaso nét ha lúa thu đông, bằng 90,4% cùng kỳ năm trước. Đến nay, toàn vùng đã thu hoạch được 383,4 bongdaso nét ha lúa thu đông, chiếm 52,4% diện tích gieo cấy và bằng 89% cùng kỳ năm trước.
Tiến độ thu hoạch lúa thu đông chậm hơn so với cùng kỳ năm trước do vụ hè thu năm nay xuống giống muộn và kéo dài, đồng thời do ảnh hưởng của mưa bão nên lũ về sớm làm nhiều diện tích không thể gieo cấy được, ảnh hưởng tới thời gian xuống giống vụ thu đông. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất toàn vụ ước tính đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ thu đông năm trước; sản lượng ước tính đạt 3,9 triệu tấn, giảm 343,2 bongdaso nét.
Một số địa phương có diện tích gieo cấy và sản lượng thu hoạch giảm nhiều: Long An (giảm 16,5 nghìn ha và giảm 48,8 bongdaso nét); Đồng Tháp (giảm 16,1 nghìn ha và giảm 89,8 bongdaso nét); Hậu Giang (giảm 12,1 nghìn ha và giảm 60,2 bongdaso nét); Kiên Giang (giảm 10,9 nghìn ha và giảm 69 bongdaso nét).
Cũng tính đến thời điểm trên, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được 171 bongdaso nét ha lúa đông xuân sớm, tương đương cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo sạ được 168,7 bongdaso nét ha, bằng 100,3%.
Tính đến ngày 15/11/2018, cả nước gieo trồng được 100,3 bongdaso nét ha ngô, bằng 101,8% cùng kỳ năm trước; 21,2 bongdaso nét ha khoai lang, bằng 98,6%; 4,7 bongdaso nét ha đậu tương, bằng 102,2%; 4,9 bongdaso nét ha lạc, bằng 96,1%; 144,6 bongdaso nét ha rau đậu, bằng 105,9%. Thời tiết thuận lợi, sâu bệnh ít xuất hiện nên các cây vụ đông đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt.
Chăn nuôi gia súc và gia cầm nhìn chung ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Đàn trâu cả nước trong tháng ước tính giảm 1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 2,2%; đàn lợn tăng 2,8%; đàn gia cầm tăng 5,8%.
Tính đến thời điểm 25/11/2018, cả nước không còn dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở Quảng Trị. Đáng lưu ý, bệnh dịch tả lợn châu Phi vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp ở phía Nam Trung Quốc, gần biên giới với các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam, do đó các cấp, các ngành cần chủ động có biện pháp ngăn chặn bệnh dịch xâm nhập vào nước ta.
Lâm nghiệp
Trong tháng Mười Một, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 26,1 bongdaso nét ha, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 8,1 triệu cây, giảm 1,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1,2 triệu m3, tăng 9,8%; sản lượng củi khai thác đạt 1,6 triệu ste, tương đương cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao: Hòa Bình tăng 10,9%; Thanh Hóa tăng 12,9%; Quảng Ngãi tăng 13,9%; Quảng Trị tăng 19,2% và Nghệ An tăng 19,5%.
Tính chung 11 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 213 bongdaso nét ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 76,6 triệu cây, giảm 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 11,6 triệu m3, tăng 10,1%; sản lượng củi khai thác đạt 22 triệu ste, giảm 1,3%.
Trong tháng, cả nước có 34,5 ha rừng bị thiệt hại, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 31,9 ha. Tính chung 11 tháng năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.270,4 ha, giảm 16,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 741,1 ha, tăng 43,3%; diện tích rừng bị chặt, phá là 529,3 ha, giảm 47,7%.
Thủy sản
Trong tháng Mười Một, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 684,4 bongdaso nét, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 510,3 bongdaso nét, tăng 9,6%; tôm đạt 80,5 bongdaso nét, tăng 2,9%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 393,6 bongdaso nét, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước do diện tích cho thu hoạch tăng mạnh, trong đó cá đạt 285,2 bongdaso nét, tăng 12,5%; tôm đạt 69,4 bongdaso nét, tăng 3,1%. Nuôi cá tra trong tháng đạt khá.
Giá cá tra tiếp tục ở mức cao, có thời điểm giá cá tra nguyên liệu đạt tới 36.500 đồng/kg (mức giá người nuôi có lãi từ 8.000-10.000 đồng/kg), đồng thời xuất khẩu cá tra đang thuận lợi nên nhiều ao nuôi tận dụng thu hoạch sớm. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 128,7 bongdaso nét, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó An Giang đạt 39,2 bongdaso nét, tăng 74%; Đồng Tháp đạt 42,8 bongdaso nét, tăng 4,6%; Cần Thơ đạt 11,7 bongdaso nét, tăng 10%.
Nuôi tôm nước lợ đang thu hoạch cuối vụ để chuẩn bị thả giống cho vụ nuôi mới. Sản lượng tôm sú trong tháng ước tính đạt 22,8 bongdaso nét, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước; tôm thẻ chân trắng đạt 43,2 bongdaso nét, tăng 7,2%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười Một ước tính đạt 290,8 bongdaso nét, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 225,1 bongdaso nét, tăng 6%; tôm đạt 11,1 bongdaso nét, tăng 1,8%. Riêng sản lượng khai thác biển ước tính đạt 270,8 bongdaso nét, tăng 5,3%,trong đó cá đạt 211 bongdaso nét, tăng 6,5%; tôm đạt 10 bongdaso nét, tăng 2%.
Tính chung 11 tháng, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 6.873,7 bongdaso nét, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.688,9 bongdaso nét, tăng 6,9%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.184,8 bongdaso nét, tăng 5,3% (sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 2.997,3 bongdaso nét, tăng 5,6%).