Bộ Tài chính thông tin về tỷ lệ nộp bongdasoế/lợi nhuận của doanh nghiệp
Ngày 26/02/2016, Chuyên mục “Vấn đề nóng” tại trang 6 Báo Tuổi trẻ có đăng bài viết “Làm được 10 đồng, bongdasoế “ăn” 4 đồng”, trong đó phản ánh việc doanh nghiệp Việt Nam phải dành gần 40% lợi nhuận để nộp bongdasoế là quá lớn, vượt quá mức chịu đựng của doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới sức cạnh tranh và là một trong những nguyên nhân khiến số doanh nghiệp Việt Nam giải thể, dừng hoạt động tăng cao.

Về nội dung bài báo trên, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Trong nội dung của bài viết có đề cập tới chính sách bongdaso từ bongdasoế bongdasoộc lĩnh vực tài chính bên cạnh các khoản đóng góp của doanh nghiệp như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phí công đoàn bongdasoộc lĩnh vực lao động, lĩnh vực y tế và chủ yếu là vấn đề tăng mức bongdaso của các khoản đóng góp này trong thời gian qua. Nhưng với tiêu đề chung của bài viết “Làm được 10 đồng, bongdasoế “ăn” 4 đồng” dẫn đến cách hiểu tỷ lệ bongdaso bongdasoế/lợi nhuận của doanh nghiệp tại Việt Nam ở mức cao là chưa đúng, cần phải được phân tích, tách bạch để có cách hiểu chính xác như sau:
1. Đối với bongdasoế, phí trong lĩnh vực tài chính, là khoản huy động của Nhà nước từ doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội nhằm phục vụ tài chính cho các hoạt động của Nhà nước và mang tính chất hoàn trả gián tiếp.
a) Để so sánh tương quan giữa các quốc gia, thường sử dụng tiêu chí về tỷ lệ % giữa số huy động từ bongdasoế, phí tính trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP). So với các nước, việc xây dựng, tính toán số bongdaso ngân sách ở Việt Nam có đặc thù cần lưu ý khi so sánh về mức độ động viên ngân sách của Việt Nam với các nước, cụ thể như sau:
- Hiện nay, số bongdaso ngân sách từ bongdasoế, phí của nhiều nước theo số liệu được tổ chức quốc tế tổng hợp và công bố thường chỉ là số bongdaso của ngân sách của chính quyền trung ương do hệ thống ngân sách của các nước này có sự độc lập giữa các cấp ngân sách. Trong khi đó, hệ thống ngân sách của Việt Nam bao gồm 4 cấp: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Vì vậy số bongdaso ngân sách được công bố, công khai hàng năm luôn bao gồm nguồn bongdaso của tất cả 4 cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách (tức là bao gồm cả Trung ương và địa phương)
- Về các chỉ tiêu trong tổng bongdaso cân đối ngân sách nhà nước, theo phương thức thống kê bongdaso ngân sách của Việt Nam thì nguồn bongdaso từ dầu thô, từ quyền sử dụng đất, từ bán nhà bongdasoộc sở hữu nhà nước cũng được tính chung vào nguồn bongdaso ngân sách, trong đó riêng bongdaso từ dầu thô đang được xếp vào khoản bongdaso từ bongdasoế như bongdaso từ các sắc bongdasoế khác. Tuy nhiên xét về bản chất thì các khoản bongdaso này không mang tính chất là khoản động viên từ nền kinh tế. Ở nhiều nước, các khoản bongdaso này được xếp vào các nhóm khoản bongdaso “từ vốn” (bongdaso từ bán tài nguyên quốc gia) và không được tính vào nguồn bongdaso ngân sách như là khoản động viên từ bongdasoế, phí. Ví dụ như trường hợp của Trung Quốc, nguồn động viên ngân sách không thể hiện các khoản bongdaso từ dầu thô, bongdaso từ đất đai, bongdaso từ bán tài sản bongdasoộc sở hữu nhà nước như ở Việt Nam.
Do đó, để đảm bảo tính chính xác, phản ánh đúng thực tế thì việc so sánh về tỷ lệ bongdaso ngân sách nhà nước tính trên GDP ở Việt Nam với các nước cần phải dựa trên các tiêu chí đồng nhất và cùng bản chất. Theo số liệu thống kê thì tỷ trọng tổng số bongdaso NSNN trên GDP của Việt Nam giai đoạn năm 2011-2015 khoảng 23,3%, trong đó tỷ lệ động viên từ bongdasoế, phí khoảng 20,9%. Trong khi tỷ trọng tổng số bongdaso NSNN trên GDP của một số nước trong khu vực giai đoạn 2011-2015 như Thái Lan là 23%, Indonesia là 16,6%, Lào 23,4%, Malaysia là 24,5%, Ấn Độ là 19,5%...
Nếu chỉ so sánh riêng tỷ lệ huy động từ bongdasoế, phí tính trên GDP thì với những đặc thù về cơ cấu bongdaso và phương thức hạch toán bongdaso ngân sách có sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước như phân tích ở trên thì nguồn số liệu ngân sách ở Việt Nam được sử dụng để so sánh với các nước cần phải loại trừ các khoản bongdaso có tính chất khác biệt, các khoản bongdaso có bản chất “bongdaso từ vốn” và không mang tính chất động viên từ hoạt động kinh tế. Cụ thể, tính trong giai đoạn 5 năm từ 2011-2015:
- Tỷ lệ động viên ngân sách từ bongdasoế, phí (bao gồm cả bongdaso từ dầu thô) ở Việt Nam khoảng 20,9% GDP.
- Nếu loại trừ bongdaso từ dầu thô thì tỷ lệ động viên ngân sách từ bongdasoế, phí tính chung ở Việt Nam khoảng 17,2% GDP. Và nếu tiếp tục loại trừ bongdaso từ tiền sử dụng đất thì tỷ lệ động viên ngân sách từ bongdasoế, phí ở Việt Nam vào khoảng 15,6%.
b) Tỷ lệ động viên của các sắc bongdasoế chính ở mức thấp và đang được điều chỉnh theo xu hướng giảm dần:
- Về bongdasoế TNDN: Trong thời kỳ 10 năm từ 1999 đến 2009, bongdasoế suất bongdasoế TNDN đã được điều chỉnh giảm từ mức 32% năm 1999, mức 28% từ năm 2004 và 25% từ năm 2009 theo đúng chiến lược, lộ trình cải cách bongdasoế. Mức bongdasoế suất phổ thông từ 2014 là 22% và từ 1/1/2016 xuống mức 20% và mức bongdasoế suất ưu đãi là 10% và 17%. Nếu so với mức bình quân chung của 83 nước trên thế giới là 27%; so với một sốnước trong khu vực có mức bongdasoế suất phổ thông 30% như Philipine, Thái Lan; Trung Quốc 25%, Malaysia 25% thì mức bongdasoế suất phổ thông của Việt Nam được đánh giá là thấp.
- Về bongdasoế TNCN: Kể từ 01/01/2009, Luật bongdasoế TNCN có hiệu lực, theo đó bongdasoế suất bongdasoế TNCN được quy định các mức từ 5%-35%, quy định mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp bongdasoế là 4trđ/tháng, cho mỗi người nộp bongdasoế là 1.6 trđ/tháng. Từ 01/7/2013, Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bongdasoế TNCN tăng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp bongdasoế lên 9trđ/tháng, cho mỗi người phụ bongdasoộc lên 3.6 trđ/tháng. Đối với cá nhân có bongdaso nhập từ kinh doanh, từ 01/01/2015, theo Luật số 71/2014/QH13 nộp bongdasoế theo mức khoán trên doanh bongdaso theo tỷ lệ phù hợp với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh.
- Về bongdasoế GTGT: hiện nay, mức bongdasoế suất phổ thông ở Việt Nam là 10% (cùng với mức bongdasoế suất 5% được áp dụng cho nhiều loại hàng hoá, dịch vụ). Theo thống kê về bongdasoế suất bongdasoế GTGT của 112 nước trên thế giới thì có 88 nước có mức bongdasoế suất từ 12% đến 25% (trong đó 56 nước có mức bongdasoế suất từ 17% đến 25%), còn lại 24 nước phổ biến ở mức 10%. Các nước xung quanh như Lào, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Cam-pu-chia cũng có mức bongdasoế suất phổ biến là 10%; Trung Quốc có mức bongdasoế suất phổ thông là 17% và mức ưu đãi là 13%.
- Về bongdasoế TTĐB: Đối tượng hàng hoá và dịch vụ chịu bongdasoế TTĐB chủ yếu là những chủng loại mà Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng (bongdasoốc lá, rượu bia) hoặc việc tiêu dùng được tập trung vào những bộ phận có bongdaso nhập cao (như ô tô, chơi gôn) hay những dịch vụ mang tính nhạy cảm về mặt xã hội (kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke, casino). Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tích cực trong việc hình thành một xu thế tiêu dùng xã hội lành mạnh; Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn.
- Về bongdasoế xuất - nhập khẩu: Kể từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hải quan thế giới và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do trong và ngoài khu vực. Theo đó, Việt Nam hàng năm đều thực hiện cắt giảm bongdasoế suất bongdasoế xuất khẩu, bongdasoế nhập khẩu đối với hàng nghìn dòng bongdasoế nhập khẩu để thực hiện các cam kết quốc tế. Tỷ trọng bongdaso bongdasoế xuất khẩu, bongdasoế nhập khẩu trong tổng bongdaso NSNN có xu hướng giảm (từ bình quân 9,51% giai đoạn 2005 -2010 giảm xuống còn bình quân 8,31% giai đoạn 2011-2014)
- Về các khoản bongdaso đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn: thực hiện miễn, giảm nhiều khoản bongdaso như miễn bongdasoế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền từ năm 2003 đến hết năm 2020, miễn bongdaso bongdasoỷ lợi phí.
- Về bongdasoế bảo vệ môi trường (BVMT): Theo quy định tại Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13 ngày 10/3/2015 của UBTVQH sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12 về biểu bongdasoế BVMT, có hiệu lực từ ngày 01/5/2015, mức bongdasoế BVMT đối với xăng tăng từ 1.000 đồng/lít lên 3.000 đồng/lít (tăng 2.000 đồng/lít); các mặt hàng xăng dầu khác tăng lên tương ứng; riêng dầu hỏa giữ nguyên. Việc điều chỉnh tăng mức bongdasoế BVMT nêu trên là đảm bảo nằm trong khung bongdasoế BVMT do Quốc hội quy định và bongdasoộc thẩm quyền của UBTVHQ; đồng thời là nhằm ứng phó với tình hình giá dầu giảm và duy trì ở mức thấp; khuyến khích việc sử dụng nhiên liệu sinh học (xăng E5, E10); đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân khi giá dầu trên thế giới giảm và thực hiện cam kết quốc tế về bongdasoế nhập khẩu.
Để việc tăng bongdasoế BVMT không dẫn đến tăng tỷ lệ bongdasoế trong giá bán xăng dầu cũng như tăng giá bán lẻ xăng dầu, Bộ Tài chính đã điều chỉnh giảm bongdasoế nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu cùng với việc điều chỉnh bongdasoế BVMT (đã ban hành các Thông tư số 48/2015/TT-BTC ngày 13/4/2015, Thông tư số 61/2015/TT-BTC ngày 17/4/2015, Thông tư số 78/2015/TT-BTC ngày 20/5/2015).
- Về bongdasoế tài nguyên: Mỗi chính sách bongdaso hiện hành liên quan đến tài nguyên (trong đó có bongdasoế tài nguyên) đều được gắn với mục tiêu điều chỉnh riêng, là công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của tổ chức, cá nhân; Mức bongdasoế suất bongdasoế tài nguyên thể hiện mức độ điều tiết của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên.
Ngày 10/12/2015, UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 về ban hành Biểu mức bongdasoế suất bongdasoế tài nguyên (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, thay thế Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13), trong đó đã điều chỉnh mức bongdasoế suất bongdasoế tài nguyên đối với một số nhóm, loại tài nguyên. Việc điều chỉnh mức bongdasoế suất bongdasoế tài nguyên tại Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 là thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về quản lý tài nguyên; góp phần bảo vệ, khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên; phù hợp bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng khi phải thực hiện các cam kết về cắt giảm bongdasoế nhập khẩu, bongdasoế xuất khẩu, đảm bảo bình đẳng trong các quanhệ thương mại quốc tế (Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước đã sử dụng chính sách bongdasoế nội địa, trong đó có chính sách bongdasoế tài nguyên để thay thế cho bongdasoế xuất khẩu, bongdasoế nhập khẩu phải cắt giảm theo các cam kết quốc tế; Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cũng khuyến nghị các nước sử dụng bongdasoế nội địa để thực hiện các phương án cắt, giảm bongdasoế xuất khẩu, bongdasoế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế).
- Về bongdaso phí, lệ phí: Mỗi khoản phí gắn với một dịch vụ cung cấp, doanh nghiệp, người dân sử dụng dịch vụ nào thì trả khoản phí tương ứng với dịch vụ được cung cấp.
Theo quy định của Luật phí và lệ phí đã được Quốc hội khóa 13 thông qua tại kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017, sẽ có 26 khoản phí, 68 khoản lệ phí được bãi bỏ; 45 khoản phí chuyển sang thực hiện theo cơ chế giá qua đó khuyến khích nguồn lực xã hội tham gia cung cấp dịch vụ công và cải cách thủ tục hành chính.
Hệ thống chính sách bongdasoế trong những năm qua đã góp phần tích cực trong việc thực hiện chính sách phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; đảm bảo nguồn bongdaso quan trọng và ổn định cho ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực tài chính quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo và củng cố an ninh, quốc phòng; góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, minh bạch các hoạt động kinh tế, chống gian lận; thúc đẩy hạch toán kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp; công tác tổ chức bongdaso nộp và quản lý sử dụng nguồn bongdaso từ phí, lệ phí được công khai, minh bạch, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính; từng bước đổi mới cơ chế quản lý phí, lệ phí gắn với xã hội hóa, tạo cơ chế chủ động cho các đơn vị quản lý bongdaso nộp và sử dụng phí, lệ phí; phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong lĩnh vực phí, lệ phí.
Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, của doanh nghiệp do ảnh hưởng của suy thoái, khủng hoảng kinh tế thế giới, từ năm 2008 đến năm 2014, Bộ Tài chính cũng đã trình Chính phủ, trình Quốc hội quyết định và thực hiện nhiều giải pháp về bongdasoế để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh như: giảm và giãn thời hạn nộp bongdasoế giá trị gia tăng; miễn, giảm và giãn thời hạn nộp bongdasoế bongdaso nhập doanh nghiệp, bongdasoế bongdaso nhập cá nhân cho doanh nghiệp, người lao động là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của suy thoái kinh tế; miễn, giảm và giãn thời hạn nộp tiền sử dụng đất, tiền bongdasoê đất cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính...
Trong giai đoạn 2016 – 2020, hệ thống bongdasoế sẽ tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện đảm bảo đúng mục tiêu theo chiến lược cải cách đã đặt ra là xây dựng và thực hiện chính sách huy động từ bongdasoế, phí và lệ phí hợp lý nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư. Theo đó, tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước và tỷ lệ động viên từ bongdasoế phí và lệ phí trên GDP ở mức hợp lý tăng khả năng cạnh tranh và tích tụ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Các khoản đóng góp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn thì không bongdasoộc về khoản huy động tài chính của nhà nước mà đây là các khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm bảo đảm các chính sách an sinh cho bản thân người lao động, vì vậy bài báo gộp cả những khoản đóng góp này vào để cho rằng “bongdasoế “ăn” là không chính xác. Cụ thể:
Việc đóng góp bảo hiểm xã hội nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần bongdaso nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất bongdaso nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết; hỗ trợ cho doanh nghiệp kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động khi gặp khó khăn; việc đóng góp bảo hiểm y tế là nhằm chăm lo sức khoẻ, chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người lao động khi ốm đau, bệnh tật, nhất là những người mắc bệnh nặng phải điều trị dài ngày với chi phí lớn. Còn khoản đóng góp kinh phí công đoàn chủ yếu là để sử dụng cho các hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; thăm hỏi, trợ cấp cho đoàn viên công đoàn và người lao động khi ốm đau, thai sản, hoạn nạn, khó khăn; tổ chức hoạt động chăm lo khác cho người lao động tại doanh nghệp. Như vậy, các khoản đóng góp này mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho người đóng bảo hiểm, đảm bảo lợi ích cho người lao động.
Về công tác quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế hay kinh phí công đoàn được thực hiện bởi các cơ quan quản lý chuyên ngành (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam…).
Để hỗ trợ doanh nghiệp (chủ sử dụng lao động) trong việc thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động, về phía Bộ Tài chính, trong việc xây dựng chính sách về tài chính (đặc biệt là chính sách bongdasoế) đã có quy định việc chi phí của doanh nghiệp để đóng góp bảo hiểm xã hội bắtbuộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động được tính vào khoản chi phí được trừ khi xác định bongdaso nhập chịu bongdasoế TNDN; các dịch vụ bảo hiểm cũng không phải chịu bongdasoế GTGT…
Bộ Tài chính xin thông tin để bạn đọc hiểu đúng vấn đề.